Thứ Hai, 24 tháng 8, 2015

Những bệnh về máu nguy hiểm


Bệnh về máu là một trong các bệnh nguy hiểm và cần sự điều trị phức tạp, lâu dài. Dưới đây là những thông tin cơ bản về một số bệnh máu:

Những bệnh về máu nguy hiểm

*Bệnh Thalassemia: Là một bệnh về máu di truyền, cơ thể người bị bệnh không tạo được đầy đủ huyết cầu tố bình thường. Thiếu máu này kéo dài, nặng dần, nên da trẻ xanh xao, nhợt nhạt, trẻ mỏi mệt ít hoạt động, chậm phát triển, nếu để kéo dài thì gan lách to ra, biến dạng cả bộ mặt. Một điều phiền toái là thiếu máu này không đáp ứng với điều trị bằng thuốc, mà phải điều trị bằng truyền máu nhiều lần, để bảo đảm duy trì lượng huyết cầu tố luôn luôn trên 100g/lít, có như vậy thì trẻ mới có thể phát triển bình thường và gan lách không to ra.

Những bệnh về máu nguy hiểm

Phẫu thuật cắt lách không chữa khỏi được bệnh Thalassemia, mà chỉ là một biện pháp điều trị tình thế. Lách là một bộ phận quan trọng của cơ thể, có vai trò miễn dịch, tức là có vai trò góp phần chống đỡ với nhiễm trùng để bảo vệ cơ thể, ngoài ra lách còn có một số chức năng khác. Do đó không phải trường hợp thalasêmi nào cũng điều trị bằng cắt lách. Chỉ phẫu thuật cắt lách khi lách to có hiện tượng cường lách làm vỡ thêm nhiều hồng cầu, hoặc lách quá to gây chèn ép trong ổ bụng và dễ có nguy cơ vỡ lách khi có chấn thương. Sau khi cắt lách nhu cầu truyền máu có giảm, song nguy cơ dễ bị nhiễm trùng nặng và tắc mạch do tăng tiểu cầu ở máu nhiều. Vì vậy rất thận trọng chỉ định phẫu thuật cắt lách.

Nếu một trong hai bố mẹ có một người mang gen Thalassemia, thì con của họ sinh ra sẽ có khả năng một nửa bình thường, một nửa là trẻ lành nhưng có mang gen Thalassemia.

*Bệnh Hemophilia: Là bệnh rối loạn đông máu di truyền do thiếu yếu tố đông máu 8 và 9, khiến bệnh nhân rất dễ bị chảy máu và không thể cầm được. Đông máu phụ thuộc vào sự tương tác của nhiều thành phần trong máu. Một vài trong số đó được gọi là yếu tố đông máu. Nếu một trong số các yếu tố đông máu này không có hoặc bị thiếu thì chảy máu kéo dài có thể xảy ra. Một bệnh nhân Hemophilia có ít yếu tố đông máu hơn bình thường.

Những bệnh về máu nguy hiểm

Nhìn chung bệnh nhân Hemophilia càng nặng càng có biểu hiện bệnh sớm. Triệu chứng thường xuất hiện khi trẻ bắt đầu tập đứng và lẫm chẫm tập đi. Sau những cú ngã hoặc va chạm khi tập đi thường xuất hiện xuất huyết dưới da hoặc chảy máu môi, lưỡi. Ở trẻ 2- 3 tuổi chảy máu trong cơ khớp hay gặp với biểu hiện sưng đau, giảm vận động của chân, tay. Tiêm vào cơ có thể gây chảy máu nặng hơn. Trong trường hợp cần thiết (ví dụ như tiêm chủng), chúng ta nên tiêm dưới da để an toàn hơn cho bệnh nhân. Mặc dù các triệu chứng lâm sàng của chảy máu khó cầm và tiến sử gia đình có thể gợi ý nghĩ đến bệnh Hemophilia nhưng để chẩn đoán xác định phải dựa vào nồng độ yếu tố đông máu trong máu. Xét nghiệm máu nên được tiến hành tại phòng xét nghiệm có kinh nghiệm và có khả năng làm xét nghiệm này.

Người không được truyền chế phẩm máu sẽ ngay lập tức dính khớp, trở thành tàn phế suốt đời; trong khi đó nếu được tiếp máu đúng hẹn, họ cũng có thể đóng góp cho xã hội như người bình thường.

*Thiếu máu: Là sự giảm số lượng hồng cầu hay lượng hemoglobin thấp hơn mức bình thường. Thiếu máu làm cho lượng oxi vận chuyển trong cơ thể kém hơn bình thường. Người bị thiếu máu sẽ bị thiếu oxi. Người bị thiếu máu cảm thấy lúc nào cũng mệt mỏi, da dẻ xanh xao, hồi hộp, thở ngắn.

Những bệnh về máu nguy hiểm

Phụ nữ thường dễ bị thiếu máu hơn nam giới, vì họ bị mất máu do kinh nguyệt mỗi tháng. Thiếu máu do thiếu sắt cũng thường gặp ở nữ.Ở người lớn, thiếu máu do thiếu sắt thường do mất máu lâu ngày. Thiếu máu này có thể do kinh nguyệt, hay do mất máu ít nhưng kéo dài ( có thể khó phát hiện) như trong bệnh giun móc, loét dạ dày- tá tràng, ung thư đại tràng. Thiếu máu cũng có thể là do xuất huyết dạ dày- ruột khi dùng một số thuốc để trị đau nhức thông thường như : aspirin, diclofenac và ibuprofen (ADVIL, MOTRIN). Ở trẻ em, thiếu máu thiếu sắt thường do chế độ ăn uống thiếu chất sắt. Ngoài ra còn những nguyên khác cũng gây ra thiếu máu là do: thiếu vitamin B12, thiếu axit folic, do vỡ hồng cầu, rỗng ống tủy xương…

Điều trị thiếu máu, trước tiên, là điều trị nguyên nhân gây thiếu máu. Chẳng hạn, thiếu máu do mất máu từ ổ loét dạ dày. Điều trị là dùng thuốc trị loét. Cũng vậy, phẫu thuật thường cần thiết để cắt bỏ khối ung thư đại tràng, dùng thuốc xổ lãi để trị giun móc. Đó là những nguyên nhân gây ra thiếu máu mãn tính. Đôi khi bổ sung thêm chất sắt cũng rất cần thiết để trị chứng thiếu máu do thiếu sắt. Nhiều lúc thiếu máu nặng cần phải truyền máu. Chích Vitamin B12 cũng cần cho những bệnh nhân thiếu máu hồng cầu lớn hay thiếu máu do những nguyên nhân khác gây thiếu B12. Ở một số bệnh nhân mắc bệnh lý tủy xương ( hay tổn thương tủy do hoá trị ) hay bệnh nhân bị suy thận, epoetin alfa (Procrit, Epogen ) có thể được sử dụng để kích thích tủy xương sản xuất hồng cầu.

*Đa hồng cầu: Là một trong những bệnh lý tăng sinh tủy ác tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi sự tăng sinh của cả 3 dòng hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu ở trong tủy xương, dẫn đến sự gia tăng số lượng của các tế bào này trong máu ngoại vi, đặc biệt là số lượng hồng cầu. Các biểu hiện thường gặp của bệnh là đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, ù tai, nhìn mờ, chảy máu cam, xuất huyết tiêu hóa, bầm tím tự nhiên trên da, ngứa, ra nhiều mồ hôi, gầy sút, mặt và lòng bàn tay đỏ, đau nhức xương, gan lách to và các biểu hiện tắc mạch như đau cách hồi, nhồi máu não.

Những bệnh về máu nguy hiểm






Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ

Công ty TNHH Sức Khỏe Tuyệt Hảo


Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: 0935 141 438 - Mr LâmEmail : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn

Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015

Hội chứng thiếu máu chi


 Hội chứng thiếu máu chi

1. Đại cương

- Hội chứng thiếu máu chi là hậu quả của nhiều bệnh lí khác nhau gây hẹp hoặc tắc các động mạch cấp máu nuôi chi. Tuỳ theo mức độ và tiến triển của thiếu máu chi mà có thể chia ra: hội chứng thiếu máu chi cấp tính, mãn tính và bán cấp tính.

- Hội chứng thiếu máu cấp tính chỉ xảy ra khi lưu thông dòng máu bình thường bị cắt đứt một cách đột ngột trong các động mạch lớn nuôi chi, gây nên thiếu máu cấp tính cho đoạn chi phía dưới. Do vậy thiếu máu chi rất nặng và tiến triển rất cấp tính, và là cấp cứu ưu tiên số 1 trong ngoại khoa. Các bệnh lý thường gặp nhất trong cấp cứu gồm: vết thương - chấn thương động mạch (đã học ngoại bệnh lí Y4) và tác động mạch chi cấp tính, nên trong bài này chỉ giới thiệu về hội chứng thiếu máu chi cấp tính do tắc động mạch.

Cần phân biệt hai loại nguyên nhân gây tắc động mạch chi cấp tính:

+ Máu cục, di vật từ nơi khác trôi đến gây tắc động mạch (embolie) đây là nguyên nhân thường gây nên hội chứng thiếu máu cấp tính chi điển hình, và hay gặp trên lâm sàng.

+ Huyết khối hình thành tại chỗ trong động mạch chi (thrombose): thường xảy ra trên một động mạch bệnh lý, ít gặp trên lâm sàng (xem mục 2.3).

- Trái với thiếu máu cấp tính, hội chứng thiếu máu mãn tính chi lại diễn biến rất từ từ, do dòng động mạch bị hẹp dần lại trước khi tắc hoàn toàn, nên hệ thống tuần hoàn phụ có thời gian phát triển để bù đắp phần nào sự thiếu máu. Vì vậy, tiến triển của thiếu máu rất chậm và không cấp tính. Có nhiều nguyên nhân bệnh lí gây ra thiếu máu mãn tính chi dưới do xơ vữa động mạch, là một trong những nội dung chính của bài.

- Thiếu máu máu bán cấp tính chi ít gặp, là dạng trung gian của hai dạng thiếu máu trên. Thường là một thiếu mau cấp tính xảy ra trên nền thiếu máu mãn tính (ví dụ tắc động mạch cấp tính/hẹp động mạch do xơ vữa – thrombose).

- Về chẩn đoán, Chủ yếu là dựa vào lâm sàng để chẩn đoán xác định thiếu máu cấp tính chi, và chẩn đoán xơ bộ thiếu máu mãn tính chi.

2. Hội chứng thiếu máu cấp tính chi do tắc động mạch




Nguyên nhân gây tắc động mạch chi cấp tính (hay còn gọi là nghẽn mạch) là do mảnh dị vật trôi từ hệ thống tuần hoàn phía thượng lưu xuống gây tắc mạch (embolie). Có nhiều loại dị vật nhưng chủ yếu là các mảnh máu cục ở trong tim trái hay trong khối phồng động mạch, các cục sùi trong Osler, ngoài ra còn gặp các mảnh u trong tim (u nhầy nhĩ trái) hay các mảnh xơ vữa...

Chẩn đoán xác định

Nhìn chung, chẩn đoán chủ yếu dựa vào lâm sàng với hội chứng thiếu máu cấp tính phía ngoại vi. Nguyên tắc khám lâm sàng: đối chiếu với chi lành – chi bệnh, bệnh cảnh lâm sàng thay đổi và diễn biến theo thời gian, lưu ý tìm bệnh căn. Các thăm dò hình ảnh có vai trò đánh giá mức độ thương tổn tắc mạch, và chẩn đoán xác định bệnh căn.

Cơ năng:

- Bệnh thường khởi phát bằng cơn đột qui: mất đột ngột vận động chủ động bình thưòng của chi.

- Sau đó xuất hiện tê bì, giảm cảm giác phía ngọn chi, chi lạnh. Muộn hơn sẽ thấy đau nhức rồi mất hoàn toàn cảm giác ngọn chi, lan dần về phía gốc chi theo thời gian.

- Tiền sử: đa phần người bệnh biết về tiến sử bệnh tim - mạch của mình, hoặc đang điều trị Osler.

Toàn thân:

- Các biểu hiện của bệnh căn, ví dụ như hẹp hở van 2 lá, loạn nhịp tim, cao huyết áp, suy tim viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn

- Vào giai đoạn muộn, có thể thêm các dấu hiệu nhiễm trùng - nhiễm độc toàn thân do hoại tử chi, như sốt cao, thiểu- vô niệu, lơ mơ, tụt huyết áp, mạch nhanh...

Chi bị tắc mạch:

- Biểu hiện của hội chứng thiếu máu cấp tính phía ngoại vi với hàng loạt các triệu chứng lâm sàng dưới đây:

+ Mầu sắc da nhợt nhạt.

+ Sờ thấy lạnh.

+ Mạch ngoại vi (quay, mu) mất, vận mạch đầu ngón giảm.

+ Rối loạn cảm giác: cảm giác nông giảm dần rồi mất hẳn, đi từ ngọn chi đến gốc chi.

Rối loạn vận động: vận động chủ giảm dần rồi mất hoàn toàn, đi dần từ ngọn chi đến gốc chi.

+ Phù nề và đau bắp cơ: thường xuất hiện khi bắt đầu giai đoạn thiếu máu không hồi phục, các bắp cơ sưng nề, đau nhức, bóp vào chi làm đau tăng lên.

+ Nổi các nốt phỏng nước, Khớp bị cứng lại như khớp tử thi, xuất hiện những mảng tím đen trên da, rồi cả một đoạn chi tím đen hoại tử, có khi hoại tử nhiễm trùng, chảy nước và hôi thối, gây nhiễm độc toàn thân rất nặng.

Lưu ý: các triệu chứng trên diễn biến nặng dần theo thời gian, nhưng tiến triển thường chậm hơn, nếu điều trị sơ cứu tốt, so với chấn thương - vết thương mạch máu, do hệ tuần hoàn phụ không bị ttổn thương.

Thông thường các triệu chứng trên sẽ phân bố theo giai đoạn thiếu máu như sau:

< 6 giờ 

Mất mạch, lạnh 

Giảm cảm giác 

Giảm vận động 

> 6 giờ 

Phù nề + Đau cơ 

Mất cảm giác 

Mất vận động 

> 24giờ 

Phỏng nước 

Cứng khớp tử thi 

Tím đen, hoại tử... 

Để thuận tiện trong ứng dụng lâm sàng, có tác giả đã tóm tắt hội chứng thiếu máu cấp tính phía ngoại vi bằng “5 chữ P” (trong tiếng Anh):

+ Đau ( pain ) chi bị tổn thương

+ Mất mạch ( Pulse lessness ) ngoại vi,

+ Nhợt (Palor) màu da

+ Giảm vận động (Paralysis).

+ Tê bì, giảm cảm giác (paresthesia).

- Xác định vị trí tắc mạch: tức là xác định một cách tương đối vùng bắt đầu bị tắc mạch, dựa vào việc bắt mạch chi. Ví dụ:

+ Tắc mạch chậu: mất đoạn bẹn

+ Tắc nạch đùi: mạch bẹn yếu, mạch khoeo mất.

+ Tắc mạch khoeo: mạch bẹn hơi yếu, mạch khoeo yếu hoặc mất.

+ Tắc mạch dưới đòn-nách: mất mạch cánh tay.

+ Tắc mạch cánh tay trên chỗ chia quay-trụ: mạch cánh tay yếu, mạch quay mất...

Việc xác định vị trí này có ý nghĩa nhất định trong tiên lượng bệnh, cũng như trong việc lưa chọn đường mổ, và kỹ thuật lấy dị tật.

Cận lâm sàng:

- Xquang ngực thông thường, điện tim, sinh hoá máu là các thăm dò thông thường để đánh giá tình trạng trung của bệnh nhân trước phẫu thuật, cũng như giúp tìm bệnh căn ở tim.

- Thăm dò hình ảnh: do bệnh cần phải mổ cấp ,cứu để lấy dị vật, lập lại lưu thông dòng máu càng sớm càng tốt, nên chỉ làm các thăm dò hình ảnh khi có điều kiện làm cấp cứu, và ở các cơ sở chuyên khoa sâu. Trong đó chủ yếu chỉ dùng: siêu âm Doppler mạch, chụp động mạch thông thường để xác định vị trí-mức độ tắc mạch; và siêu âm tim, hay chụp cắt lớp vi tính động mạch chủ yếu để xác định bệnh căn...( tham khảo thêm ở mục 3.3).

Chẩn đoán phân biệt


Cần chẩn đoán phân biệt hôi chứng thiếu máu cấp tính chi do tắc động mạch với một số bệnh ít gặp sau:

- Huyết khối động mạch cấp tính: huyết khối hình ảnh tại chỗ trong động mạch chi (thrombose), thường xảy ra trên mạch bệnh lý (hẹp mạch do xơ vữa) của chi dưới. Do là một thiếu máu cấp tính xảy ra trên nền thiếu máu mãn tính, nên thường chỉ gây thiếu máu bán cấp tính chi, với tiến triển chậm hơn so với thiếu máu cấp tính. Tuy nhiên, ở giai đoạn muộn thì các dấu hiệu thiếu máu cũng rất giống với thiếu máu cấp tính. Phân biệt bằng: tiền sử có hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới do xơ vữa động mạch, mạch của chân lành cũng yếu hoặc mất, xác định bằng thương tổn thấy trên Doppler mạch và chụp mạch (thành mạch nham nhở không đều, vôi hoá, tuần hoàn phụ phát triển). Bệnh không nên mổ cấp cứu, chỉ điều trị bằng thuốc chống đông và xét mổ phiên sau ( tham khảo mục 3.5).

- Lóc động mạch chủ (aortic dissection): thể lóc lan xuống tận động mạch chủ bụng và động mạch chậu. Điều trị rất khó và tiên lượng rất xấu.

- Thường xảy ra ở người lớn tuổi, cao huyết áp do xơ vữa động mạch. Khởi phát bằng đau đột ngột và dữ dội ở ngực và lưng lan xuống bụng.

- Bắt mạch và đo huyết áp thấy khác nhau giữa hai tay và giữa tay- chân, ví dụ huyết áp tay phải >> tay trái, huyết áp tay >>> chân. Nghe tim có thể thấy thổi tâm trương của hở van động mạch chủ.

- Hội chứng thiếu máu cấp tính chi thường xuất hiện ở cả hai cân, tiến triển rất nhanh.

- Chụp Xquang ngực thấy trung thất giãn rộng.

- Chẩn đoán xác định bằng chụp đọng mạch chủ và chụp cắt lớp vi tính.

- Chi sưng – nóng – đau (phlegmatia cerulea dolens): do viêm tắc hệ tĩnh mạch chậu - đùi đột ngột, gây ứ trệ tuần hoàn, đau - phù chân làm khó bắt mạch, da có mầu tím. Chẩn đoán xác đinh bằng siêu âm Doppler mạch, chụp tĩnh mạch... Điều trị nội khoa là chính.

- Tắc trạc 3 chủ- chậu cấp tính: do huyết khối hình thành tại chỗ hay từ nơi khác trôi đến. Biểu hiện thiếu máu rất cấp tính ở cả 2 chân. Xác định bằng siêu âm Doppler mạch. Điều trị phức tạp và tiên lượng rất xấu.

Nguyên tắc xử trí

Mục tiêu: cố gắng rút ngắn tối đa thời gian thiếu máu chi bằng các biện pháp sơ cứu và mổ phục hồi lưu thông dòng máu càng sớm càng tốt, thà chấp nhận mổ thăm dò còn hơn là để muộn do đợi các dấu hiệu thiếu máu thật rõ.

Sơ cứu: ngay sau khi có chẩn đoán lâm sàng, cần cho ngay thuốc đông máu, sau đó chuyển ngay lên cơ sở ngoại khoa có khả năng phẫu thuật mạch máu.

- Thuốc chống đông thường dùng trong cấp cứu là: Heparin tiêm tĩnh mạch (TM), liều lượng 100-200đ.vị /kg /24 giờ. Chế phẩm thường là lọ 5 ml (5000 đ.vị /1ml).

Với các phương pháp dùng thuốc như sau:

- Pha tổng liều xy lanh 20-50ml, chia ra tùng liều nho tiêm TM, cách nhau 2-4 giờ.

- Pha tổng liều / 500 ml HT nhọt đẳng trương 5% truyền nhỏ giọt chậm trong 24 giờ.

- Pha tổng liều trong xy lanh 20-50 ml, truyền TM liên tục bằng bơm tiêm điện.

Có thể thay thế Heparin bằng Calciparin, tiêm dưới da bụng, với liều tương tụ chia nhỏ liều 6 giờ/ 1lần.

Điều trị thực thụ:

* Phẫu thuật lấy dị vật, phục hồi lưu thông dòng máu:

- Gây tê tại chỗ hoặc tê vùng, rất ít khi cần me NKQ.

- Mở động mạch lấy huyết khối bằng ống thông có bóng (Fogarty).

- Vị trí mở ĐM trường dùng là ĐM cánh tay 1/3 dưới đối với chi trên, ĐM đùi chung và ĐM khoeo đối với chi dưới.

- Kết hợp mở cân phía dưới (thường ở cẳng chân), nếu đã chuyển sang giai đoạn thiếu máu không hồi phục, tức là khi có dấu hiệu sưng nề- đau bắp cơ.

* Cắt cụt chi: khi đã có dấu hiệu thiếu máu không hồi phục hoàn toàn (căng cứng bắp cơ, nổi phỏng nước, cứng khớp tủ thi) hoặc chi đã tím đen hoại tử.

* Săn sóc mổ:

- Chống đông: nên duy trì 3-5 ngày bằng Heparin hay Calciparin 200-300 đ.vị/kg /24 giờ. Sau thay bằng kháng đông đường uống ( Sintrom hay Aspegic).

- Điều trị bệnh căn và toàn thân: như suy tim, cao HA, suy thận.

- Săn sóc vết mổ và theo dõi lưu thông dòng máu.

- Sớm điều trị tiệt căn (ở tim hay mạch) nếu thể trạng cho phép, tránh tắc mạch tái phát, Sẽ nặng hơn nhiều.

3. Hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới do xơ vữa động mạch


3.1. Khái niệm về hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới

Trước đây, người ta thường xếp lẫn các biểu hiện của “hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới” như là một bệnh cảnh của “viêm tắc động mạch chi” thực chất, viêm tắc động mạch chi bao gồm nhiều bệnh gây viêm, thoái hoá, dẫn đến tắc các động mạch ở ngọn chi, chủ yếu chi dưới, biểu hiện ra ngoài bằng các biểu hiện thiếu máu mãn - bán cấp - hay cấp tính ở các đầu ngón chân. Bệnh viêm tắc động mạch chi này rất đa dạng, diễn biến phức tạp, và còn nhiều vấn đề chưa được hiểu biết rõ.

Hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới, hay còn được gọi là “ viêm các động mạch chi dưới” là một mảng quan trọng và thường gặp trong các bệnh lí mạch máu chi, và liên quan chủ yếu đến các động mạch lớn của chi.

Có nhiều bệnh lý khác nhau gây ra hội chứng thiéu máu mãn tính chi dưới, như bệnh Buerger ( Nam, 20-40 tuổi, hút thuốc lá nặng, tắc mạch ngoại vi...) bệnh động mạch do đái đường (thường đi kèm xơ vữa động mạch), Bệnh xơ vữa sớm, viêm động mạch não suy... Tuy nhiên, các nghiên cứu nước ngoài đều cho thấy có tới 90-95% thiếu máu nãn tính chi dưới có nguồn gốc xơ vữa động mạch, và đại đa số dều ở nam giới.

Như vậy, các triệu chứng của hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới tuy không đồng nghĩa, nhưng có thể coi như là triệu chứng của bệnh xơ vữa động mạch chi dưới.

3.2. Chẩn đoán lâm sàng

Gồm 4 phương pháp thăm khám cơ bản:

* Hỏi bệnh:

Chủ yếu để tìm hiện tượng “đo lặc cách hồi” hay “đau cách hồi” hay không đây cũng chính là dấu hiệu thường buộc người bệnh đến với thầy thuốc.

- Hiện tượng đau này được mô tả dưới dạng: xuất hiện khi đang đi lại, đau như chuột rút, hay như có kìm kẹp vào, như bị cắn, hoặc lan rộng làm bước đi nặng như chì => buộc người bệnh phải dừng lại. Sau vài phút nghỉ ngơi, các dấu hiệu này biến mất. Người bệnh laị tiếp tục đi và rồi lại bị một cơn đau mới. Vị trí đau điển hình là ở bắp chân, nhưng cũng có thể đùi, háng, hông.

- Mức độ nặng của thiếu máu liên quan chặt chẽ với quãng đường đi được giữa hai lần đau và thời gian phải nghỉ để hết đau: thiếu máu càng nặng thì quãng dường càng ngắn và thời gian nghỉ càng dài.

- Mức độ bệnh rõ khoảng cách đau là 500 -1.000 mét. Tiến triển của đau cách hồi nặng lên theo thời gian, có vai trò đánh giá mức độ và tiên lượng bệnh.

* Nhìn:

Giai đoạn sớm: tìm dấu hiệu giảm tưới máu đầu ngón, do hiện tượng làm đầy tĩnh mạch chậm của tuần hoàn động mạch kém. Có 2 cách khám:

- Cho bệnh nhân lằm ngửa, làm động tác thay đổi tư thế đưa chân lên cao và hạ xuống để làm rõ sự thiếu máu. Khi chân nhấc cao -> ngón đổi màu xanh tím. Sau đó đưa chân xuống, thấy phục hồi lại màu hồng của ngón chậm, bằng cách so sánh với chân kia, hoặc tính thời gian (bình thường, tĩnh mạch bàn chân và 1/3 dưới cẳng chân được làm đầy trong 15 giây sau khi hạ chân xuống). Theo đó, khi thời gian này > 15”=> có thiếu máu, còn nếu > 30” => thiếu máu nặng.

- Cho người bệnh làm một gắng sức, sau đó nằm lên giường khám, thấy màu sắc bàn chân xanh tái, rõ nhất là khi khu trú ở một chân. - Nếu chỉ với vài gắng sức nhẹ mà đã thấy rõ => gợi ý một thiếu máu nặng.

Ở giai đoạn muộn: thấy các biểu hiện loạn dưỡng da do thiếu máu như da khô, có các ổ loét, thậm chí thấy hoại tử ngón chân.

* Sờ: bằng cách bắt mạch 1 cách hệ thống theo các vị trí từ bẹn trở xuống => thấy mạch yếu hay mất ở ngoại vi của chi bị tổn thương nặng, đồng thời cũng giúp định khu tổn thương.

* Nghe: Khi có một hẹp động mạch nông => đặt ống nghe nhẹ nhàng có thể thấy tiếng thổi tâm thu thô ráp. Đối với mạch chi dưới cần nghe ở hai đùi, hai hố chậu trong và ở rốn.

Ngoài ra, vì xơ vữa động mạch là bệnh của toàn bộ hệ động mạch, nên cần phối hợp sờ, nghe... ở các vùng mạch khác, như ở mạch cảnh, tay...

Trên đây là 4 động tác khám lâm sàng cơ bản giúp chẩn đoán lâm sàng hội chứng thiếu máu mãn tính chi dưới, ngoài ra còn cho biết thêm về vị trí và độ nặng của tổn thương.

Đánh giá mức độ thiếu máu: (tham khảo thêm) theo phân loại của Leriche và Fontaine, có thể chia ra các giai đoạn thiếu máu như sau:

- Giai đoạn 0: không có tổn thương hẹp động mạch.

- Giai đoạn 1: có tổn thương trên chụp động mạch, song không có biểu hiện lâm sàng.

- Giai đoạn 2: tương ứng thiếu máu chức năng, tức là có đau cách hồi. Giai đoạn này cũng được chia làm3:

Giai đoạn 2 nhẹ: đau cách hồi khi đi > 300m, không có di chứng (như teo cơ).

Giai đoạn 2 vừa: đau khi đi 100- 300m, có di chứng.

Giai đoạn 2 nặng: đau cách hồi nặng, đi < 75m. Coi như thời kì chuyển tiếp sang giai đoạn 3:

Giai đoạn 3: đau liên tục cả ngày, ngay cả khi nằm, kéo dài trong nhiều tuần, cản trở giấc ngủ đêm, buộc bệnh nhân phải ngủ trên ghế sa lông.

- Giai đoạn 4 : xuất hiện các rối loạn dinh dưỡng da, hoại tử. Có thể ở các đầu ngón, hay kèm theo nhiễm trùng. Hoặc dưới dạng các ổ loét nông trên bề mặt da.

Tiến triển: thông thường 4 giai đoạn thiếu máu tiến triển tuần tự từ giai đoạn 2 -> 3 ->4. Tuy nhiên, có thể có nhiều dạng tiến triển khác, thậm chí một số ca bị huyết khối tắc mạch cấp kèm theo (thiếu máu bán cấp tính) -> nhanh chóng chuyển sang giai đoạn 4, Và hoại tử => cắt cụt.

3.3. Các thăm dò hình ảnh:

Thăm dò hình ảnh có vai trò giúp chẩn đoán xác định bệnh, đánh giá mức độ thương tổn, và dịnh hướng cho các phương pháp điều trị. Bao gồm:

- Siêu âm doppler mạch: đơn giản, giá trị chẩn đoán cao, song đòi hỏi có phuơng tiện và người làm có kinh nghiệm. Cho phép xác định chính xác vị trí hẹp - tắc mạch, mức độ thương tổn mạch, tình trạng và dòng chảy của mạch duới chỗ tắc.

- Chụp động mạch thông thường: giá trị chẩn đoán không cao, vì thường không cho thấy rõ mức độ thương tổn mạch và tình trạng ngoại vi. Chủ yếu dùng trong cấp cứu.

- Chụp động mạch số hoá: giá trị chẩn đoán rất tốt, cho biết chính xác vị trí hẹp - tắc mạch, mức độ thương tổn cũng như tình trạng của mạch ngoại vi. Tuy nhiên khá phức tạp và đồi hỏi phương tiện đắt tiền.

- Siêu âm tim, chụp mạch vành, chụp cắt lớp - cộng hưởng từ động mạch chủ..., giúp chẩn đoán và đánh giá mức độ các thương tổn phối hợp của xơ vữa động mạch ở các vùng khác.

3.4. Các yếu tố nguy cơ

Như trên đã giới thiệu, thiếu máu mãn tính chi duới là do các bệnh lý của mạch máu, mà chủ yếu là xơ vữa động mạch. Do vậy, có nhiều nguy cơ của các bệnh này.

Yếu tố lâm sàng:

- Hút thuốc lá: trên 12-15 điếu một ngày. Là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp, càng trẻ càng rõ <=> rất nguy cơ.

- Các stress/ở người trẻ trong một số hoàn cảnh xã hội.

- Tiền sử xơ vữa: biểu hiện ở mạch vành hay cơ quan khác.

- Béo bệu: cân nặng / cao/ > 10 % mức lí tưởng.

- Cao HA: lớn hơn 140 /90 mmHg <=> ít quan hệ trục tiếp đến bệnh, nhưng lưu ý không được hạ đột ngột khi có thiếu máu chi.

Các yếu tố sinh học:

- Rối loạn chuyển hoá Lipid: mỡ máu cao, có ý nghĩa xấu nếu trong tầm từ 30-60 tuổi.

- Đái đường.

- Tăng acid uric máu=> là các yếu tố nguy cơ này làm nặng thêm thiếu máu chi dưới.

3.5 Nguyên tắc xử trí

- Khi thấy bắt đầu có dấu hiệu lâm sàng (giai đoạn 2) => chuyển bệnh nhân tới các cơ sở nội khoa tim mạch để:

- Làm cái xét nghiệm sinh học.

- Làm chẩn đoán vị trí và mức độ tổn thương bằng các thăm dò hình ảnh (siêu âm và chụp mạch).

- Khi bệnh ở giai đoạn thiếu máu nặng (giai đoạn 3,4) => chuyển sớm đến các cơ sở điều trị ngoại khoa hoặc nội khoa can thiệp tim mạch.

- Điều trị nội khoa:

+ Hạn chế tiến triển của bệnh xơ vữa bằng cách điều trị và hạn chế các yếu tố nguy cơ (tâm lí + thuốc).

+ Cải thiện tưới máu động mạch bằng các biện pháp tuy nhỏ như có ý nghĩa, ví dụ như: hạn chế chấn thương vào chi, tránh tiếp xúc vật nóng, tránh nhiễm trùng bàn chân, các biện pháp vệ sinh chân.

+ Dùng một số thuốc giãn mạch (Fonzylan), thuốc giảm đông (asperin), ức chế giao cảm. Tránh dùng các thuốc phải tiêm vào đường động mạch.

- Điều trị bằng nội - ngoại khoa can thiệp:

+ Nong hẹp mạch bằng bóng.

+ Nong hẹp mạch bằng bóng + đặt Stents.

- Phẫu thuật:

+ Bắc cầu động mạch qua chỗ tắc - hẹp mạch.

+ Cầu nối ngoại vi cho những hẹp lan toả.

+ Cắt thần kinh.

+ Cắt cụt khi không còn khả năng cải thiện tưới máu chi.




Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ

Công ty TNHH Sức Khỏe Tuyệt Hảo


Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại: 0935 141 438 - Mr LâmEmail : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn

Thứ Hai, 20 tháng 7, 2015

Chữa bệnh huyết áp cao cực kỳ hiệu quả vởi củ tỏi

Tăng huyết áp có thể là nguyên phát hay thứ phát. Tăng huyết áp nguyên phát tức là tăng huyết áp mà không tìm ra được nguyên nhân, chiếm tới 95% trường hợp người lớn bị tăng huyết áp.

Bệnh cao áp huyết (hypertension,high blood pressure) nguy hiểm,đưa đến những biến chứng như tai biến mạch máu não (stroke),chết cơ tim cấp tính (heart attack),suy tim,suy thận. Cao áp huyết còn rút ngắn tuổi thọ.Khổ cái,trong đa số các trường hợp,cao áp huyết không gây triệu chứng.Nhiều vị không biết mình mang bệnh,tình cờ đi thăm bác sĩ vì một lý do gì khác,được bác sĩ cho biết có cao áp huyết.Cho nên,cao áp huyết nổi danh là một ‘’căn bệnh thầm lặng’’.

Chữa bệnh huyết áp cao cực kỳ hiệu quả vởi củ tỏi

Theo GS Phạm Gia Khải, Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, ở nước ta, người có độ tuổi từ 25 trở lên mắc bệnh tăng huyết áp chiếm tỉ lệ khá cao và có xu hướng gia tăng. Chẳng hạn, năm 1960 chỉ có 1%; năm 2002 đã tăng lên 11,5%; năm 2008 vọt lên 25,1%…

Để điều trị bệnh cao huyết áp, cần tuân thủ chặt chẽ những chỉ dẫn của bác sĩ. Có thể dùng các biện pháp Đông y hỗ trợ điều trị nhưng phải có sự thăm khám thường xuyên để bác sĩ nắm được những chuyển biến của bệnh.

Theo đó, bạn có thể ăn uống các thực phẩm tốt cho sự ổn định huyết áp hoặc sử dụng một số bài thuốc từ thảo dược. Một trong những thực phẩm – thảo dược rất tốt cho bệnh cao huyết áp chính là tỏi.

Tỏi có vị cay, tính ôn, vào hai kinh can và vị, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, sát độc, sát trùng, trừ phong, tiêu nhọt, tiêu đờm…

Dược tính khoa học của tỏi

Tỏi thường có các hợp như là allicin, liallyl sulfide, ajoene, acid amin tự nhiên, khoáng chất selenium, S-allyl cysteine, diallyl disulfide và diallyl trisulfide …tuy nhiên allicin, liallyl sulfide, ajoene là ba hợp chất chính.
Allicin: allicin là hoạt chất mạnh nhất. Trong tỏi không có allicin ngay mà có chất alliine (một acidamin), chất alliine chịu tác dụng của men alinazane trong tỏi khi bị ôxy hóa chuyển hóa thành allicin. Chính vì vậy khi dùng tỏi thường, càng cắt nhỏ hoặc đập dập nát thì hoạt tính càng cao. Nhược điểm allicin càng để lâu càng mất bớt hoạt tính, khi đun nấu càng đẩy nhanh quá trình mất allicin, đặc biệt đun trong lò vi sóng allicin sẽ bị phá hủy hoàn toàn.
Allicin là một chất kháng sinh tự nhiên rất mạnh, mạnh hơn cả penicillin. Allicin có tác dụng ức chế rất nhiều loại vi khuẩn gram âm và gram dương như saphylococcus, streptococcus, samonella, V.cholerae,B.dysenteriae,mycobacterium tuberculosis. Chính vì vậy tỏi làm ức chế sự phát triển của nhiều loại siêu vi như siêu vi bại liệt, cúm và một số loại nấm gây bệnh ở da hoặc bộ phận sinh dục nữ như candida
Liallyl sulfide: không hư hoại nhanh như allicin và vẫn giữ được dược tính khi đun nấu. Liallyl sulfide có tác dụng kháng sinh nhưng yếu hơn allicin. Giống như allicin càng thái lát hay càng dập nát càng nhiều liallul sulfide.
Ajoene: Có tác dụng làm giảm độ dính của máu.
Selenium: Tỏi có hàm lượng khoáng chất selenium đáng kể, selenium là một chất chống ôxy hóa mạnh làm tăng bảo vệ màng tế bào, phóng chống ung thư và bệnh tim mạch.

Chữa bệnh huyết áp cao cực kỳ hiệu quả vởi củ tỏi

Tại Italia, các công trình nghiên cứu được phổ biến trên tạp chí British journal of Cancer (năm 1993) của các nhà khoa học thuộc trường đại học Pensylvania chỉ ra rằng: tỏi có khả năng ngăn chặn khối ung thư do một số hợp chất có trong tỏi như S-allyl cysteine, diallyl disulfide và diallyl trisulfide. Công trình nghiên cứu của đại học Geniva, của tiến sĩ R.C.Jain trường đại học Benghzi, của đại học Newyork, các nhà khoa học Ân Độ… thì cho biết thêm tỏi còn có tác dụng hạ huyết áp, hạ cholesterol…

Cơ chế tác dụng của tỏi lên hệ tim mạch: Tỏi làm hạ cholesterol bằng cách gia tăng sự đào thải cholesterol và giảm hấp thu cholesterol xấu qua màng ruột, qua đó làm giảm độ lipid trong máu. Hoạt chất của tỏi có tính chất gần giống như nội tiết tố prostaglandin PGI2 vừa nở mạch vừa ngăn chặn quá trình kết tập tiểu cầu nên có tác dụng hạ huyết áp. Chất ajoene trong tỏi cũng làm giảm nồng độ fibrinogen trong máu giúp giảm nguy cơ nghẽn mạch. Trong các bệnh xơ vữa động mạch, các gốc tự do làm gia tăng sự ôxy hóa của tế bào LDL ở thành mạch máu tạo thành mảng bám gây cứng động mạch và làm hẹp lòng mạch. Tỏi là một loại gia vị có những chất chống ôxy hóa mạnh có tác dụng ngăn chặn quá trình này.


Qua nhiều nghiên cứu, người ta thấy tỏi có thể chữa được 4 nhóm bệnh:

Bệnh xương khớp (viêm đau khớp, vôi hóa các khớp, mỏi xương khớp)

– Bệnh hô hấp (viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản)

– Bệnh tim mạch (huyết áp cao, huyết áp thấp, xơ mỡ động mạch)

Bệnh tiêu hóa (ợ chua, khó tiêu, viêm loét dạ dày – tá tràng).

Trong y văn có ghi rằng tỏi được dùng để trị bệnh cao huyết áp ở Trung Hoa từ nhiều thế kỷ trước đây. Giới chức y tế Nhật Bản cũng chính thức thừa nhận tỏi là thuốc trị huyết áp cao.

Năm 1948, bác sĩ F.G. Piotrowski ở Geneve khẳng định công dụng của tỏi để trị cao huyết áp. Theo ông, tỏi làm giãn mở những mạch máu bị nghẹt hay bị co hẹp, nhờ đó máu lưu thông dễ dàng và áp lực giảm.

Chữa bệnh huyết áp cao cực kỳ hiệu quả vởi củ tỏi

Nhà sinh học V. Petkov thực hiện nhiều nghiên cứu ở Bulgarie cho hay tỏi có thể hạ huyết áp tâm thu từ 20-30 độ, huyết áp tâm trương từ 10 tới 20 độ.

Thạc sỹ – lương y đa khoa Vũ Quốc Trung, phòng chẩn trị Y học cổ truyền chùa Cảm Ứng, Hà Nội (Hội Đông y Hà Nội) cho rằng cách đơn giản nhất để sử dụng tỏi để chữa bệnh cao huyết áp là dưới dạng rượu tỏi hoặc giấm tỏi.

Cách làm như sau: Tỏi sống 0,25kg, bóc bỏ vỏ ngoài rồi ngâm với 0,65 lít rượu gạo 40 độ, hoặc giấm 4 – 5 % axit axetic. Ngâm trong 10 ngày là dùng được.

Liều lượng: Ngày dùng 2 lần, sáng trước bữa ăn và tối trước khi đi ngủ, mỗi lần khoảng 3ml.

Sở dĩ sử dụng rượu tỏi hoặc dấm tỏi không những vì 2 cách chế biến này đơn giản, dễ làm, dễ ăn mà còn do tỏi trong môi trường axit (giấm, rượu) sẽ tăng tác dụng lên 4 lần so với tỏi sống.

Thứ Sáu, 17 tháng 7, 2015

Bệnh ưa chảy máu (Bệnh Hemophilia) là gì?


Hemophilia là bệnh rối loạn đông máu di truyền còn goi là bệnh ưa chảy máu.Cơ thể tạo thành các cục máu đông để làm ngừng chảy máu khi bị thương và giúp phục hồi tổn thương. Bình thường cục máu đông được hình thành làm ngừng chảy máu trong cơ hoặc khớp sau những chấn thương nhỏ liên quan đến cuộc sống hàng ngày. 

Đông máu phụ thuộc vào sự tương tác của nhiều thành phần trong máu. Một vài trong số đó được gọi là yếu tố đông máu. Nếu một trong số các yếu tố đông máu này không có hoặc bị thiếu thì chảy máu kéo dài có thể xảy ra. Một bệnh nhân Hemophilia có ít yếu tố đông máu hơn bình thường. Hemophilia A là bệnh hay gặp nhất do giảm yếu tố VIII. Hemophilia B do giảm yếu tố IX. Một người bị Hemophilia không bị chảy máu nhanh hơn mà chảy máu lâu cầm hơn người bình thường
.
  Bệnh ưa chảy máu (Bệnh Hemophilia) là gì?

Tỷ lệ Hemophlia trong cộng đồng là 2/34830 người (tương đương 25 – 60 người 1 triệu dân) trong đó Hemophilia A là chủ yếu, Hemophilia B chỉ chiếm 13,16%, Hemophilia thể nặng chiếm 25 % tổng số. Ước tính toàn quốc có khoản 5.000 bệnh nhân trong đó số được phát hiện và chăm sóc chỉ chiếm khoảng 1/10. 

Hemophilia là một nhóm bệnh rối loạn đông máu di truyền do giảm yếu tố VIII, yếu tố IX hoặc yếu tố XI và được đặt tên là Hemophilia A, Hemophilia B hoặc Hemophilia C.

Dựa vào nồng độ yếu tố đông máu mà Hemophilia được phân thành 3 thể:
- Nhẹ (5 - 30 %)
- Trung bình (1 - 5 %)
- Nặng (< 1 %). 

Nguyên nhân gây bệnh

Có 20 yếu tố tham gia trong quá trình đông máu. Thiếu hụt bất kỳ yếu tố nào trong số này cũng đều dẫn đến bệnh ưa chảy máu. 

Bệnh được phân loại dựa trên yếu tố bị thiếu hụt.

  Bệnh ưa chảy máu (Bệnh Hemophilia) là gì?

- Hemophilia A. Là thể bệnh hay gặp nhất, do thiếu yếu tố VIII.

- Hemophilia B. Là thể bệnh hay gặp thứ hai do thiếu yếu tố IX.

- Hemophilia C. Là thể bệnh do thiếu yếu tố XI, triệu chứng nói chúng thương nhẹ hơn.

Triệu chứng của bệnh ưa chảy máu

Triệu chứng của căn bệnh là hay xuất hiện những vết thâm và khi bị chảy máu thường lâu cầm. Chảy máu này có thể do tự phát (không phải các yếu tố ngoại cảnh gây nên) hoặc do ảnh hưởng của vết thương cũng gây chảy máu. 

  Bệnh ưa chảy máu (Bệnh Hemophilia) là gì?

Cùng mắc căn bệnh này nhưng chảy máu nhiều hay ít còn phụ thuộc và sự thiếu khuyết nhiễm sắc thể của từng người. Việc bị đứt tay nhẹ hay chỉ chày xước da thì không có gì đáng lo, nhưng về bản chất thì nó sẽ đe dọa cuộc sống của bạn. Chảy máu nhiều lần có thể dẫn đến bệnh viêm khớp và tổn thương đến khớp trong một thời gian dài.

Đặc biệt khi chảy máu tự phát là rất nguy hiểm, nhất là khi xuất huyết não thì rất khó kiểm soát và nó đe dọa tính mạng con người.Việc mất máu trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến học tập và công việc.



Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ

Công ty TNHH sức khỏe tuyệt hảo


Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0935 141 438 - Mr Lâm
Email : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn

Thứ Tư, 8 tháng 7, 2015

Mỡ máu: hãy ăn những loại thực phẩm này

Ngoài kiêng rượu bia chất kích thích, luyện tập thể dục thể thao điều độ, chỉ số mỡ trong máu của bạn sẽ giảm đáng kể nếu trong thực đơn dinh dưỡng của bạn có thêm các loại thực phẩm dưới đây.

Rau diếp

Đứng đầu trong danh sách các loại thực phẩm vàng người bệnh mỡ máu nên ăn thường xuyên đó chính là rau diếp. Ngoài hỗ trợ điều trị căn bệnh mỡ máu, những người ăn rau diếp thường xuyên còn phòng được các chứng bệnh nguy hiểm khác như cao huyết áp, u ruột.

Để có được công dụng tuyệt vời này, người ta đã chứng minh được xenlulo có trong rau diếp có hiệu quả tích cực tới hệ tiêu hóa như giảm hấp thu mỡ, “tiêu diệt mỡ”.. điều quan trong là làm cho bạn có cảm giác no bên trong, không còn cảm giác thèm ăn, gián tiếp hạn chế hấp thu các thức ăn chứa nhiều dầu mỡ.
 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này


Rau diếp đứng đầu trong danh sách thực phẩm người mỡ máu nên ăn.

Đậu xanh

Xếp thứ hai trong danh sách là đậu xanh, nhưng hãy lưu ý là đậu xanh nẩy mầm nhé (hay còn gọi là giá đỗ). So với đậu thường, hạt đậu nẩy mầm tăng gấp 67 lần hàm lượng các vitamin nhất là vitamin C.

Chính vitamin C giúp cơ thể tăng cường bài tiết và đào thải cholesterol ra khỏi thành động mạch. Ngoài ra, khi cơ thể được cung cấp giàu lượng vitamin C sẽ giúp bạn xua tan cảm giác mệt mỏi, gián tiếp “đẩy lùi” mỡ máu.

 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này

Đậu xanh mọc mầm có hàm lượng vitamin C cao gấp 67 lần.

Táo

Táo xứng đáng là loại trái cây người mắc bệnh mỡ máu cao nên bổ sung thường xuyên nhất. Công dụng nổi bật của táo trong hỗ trợ điều trị căn bệnh mỡ máu nhờ hàm lượng chất xơ có bên trong loại quả này.

 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này


Chất béo, mỡ thừa sẽ được “đánh tan” nhờ chất xơ, pectin, vitamin C.. chứa bên trong quả táo.

Mộc nhĩ đen

Không chỉ có người mắc bệnh mỡ trong máu mà cả những ai sắp cơ nguy cơ béo phì hãy thường xuyên sử dụng mộc nhĩ đen trong khẩu phần ăn của mình hằng ngày.

Mộc nhĩ đen đi vào trong dạ dày nhanh chóng đẩy nhanh quá trình bài tiết mỡ, chất béo nhờ chất keo thực vật chỉ có trong loại thực phẩm này. Ngoài ra, ngăn ngừa máu hấp thu mỡ vào bên trong nhờ công dụng thúc đẩy sự co bóp của tràng dịch vị.

 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này

Keo thực vật trong mộc nhĩ đen tăng cường sự bài tiết chất béo. 

Lạc

Nếu bạn đang bị căn bệnh mỡ trong máu, hãy thường xuyên bổ sung loại thực phẩm rẻ tiền mà còn dễ tìm thấy ở bất kỳ đâu. Tương tự như quả óc chó, hạnh nhân.. hàm lượng sterol có trong đậu phộng         tương tự như các loại hạt vừa kể trên. Mặc khác, sterol lại là “khắc tinh” của cholesterol. Hạn chế sự hấp thu trong máu..

Ngoài ra, cholesterol trong máu sẽ được bài tiết thành các chất khác theo đường tiểu, phân ra ngoài cơ thể khi ăn lạc thường xuyên. Vì lạc rất giàu choline, lecithin và các axit béo không no có tác động tích cực tới chỉ sốc cholesterol trong máu.

 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này

Đậu phộng làm giảm hấp thu hàm lượng cholesterol trong máu. 

Thịt gia cầm

 Mỡ máu: hãy ăn 6 loại thực phẩm này

Thịt gia cầm cũng góp phần trong danh sách các loại thực phẩm người mỡ máu có thể sử dụng hằng ngày. Bạn hoàn toàn có thể yên tâm sử dụng thịt gà, vịt vì so với các loại thịt màu đỏ khác như bò, heo.. thịt gia cầm chứa nhiều axit béo không bão hòa. Tuy nhiên, hãy nhớ lột bỏ da trước khi chế biến vì phần da chứa rất nhiều mỡ không tốt cho người mắc bệnh mỡ máu. 


Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ

Công ty TNHH sức khỏe tuyệt hảo

Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0935 141 438 - Mr Lâm
Email : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

SỐT XUẤT HUYẾT



 SỐT XUẤT HUYẾT

Sốt xuất huyếtbệnh nhiễm trùng cấp do siêu vi Dengue, muỗi vằn là vật trung gian truyền bệnh, đây là loại muỗi sống ở những nơi bùn lầy nước đọng chung quanh nhà, hoặc các nơi ẩm thấp tối tăm trong nhà.

Biểu hiện là xuất huyết da, niêm mạc và trụy tim mạch, dễ đưa đến tử vong nếu điều trị không kịp thời và không đúng mức.

 SỐT XUẤT HUYẾT

Nhóm nguy cơ cao

· Bệnh này thường xãy ra ở trẻ em tuổi từ 2-9 tuổi, càng lớn càng ít bị. Ðặc biệt trẻ càng bụ bẩm khi mắc bệnh dễ có khuynh hướng diễn tiến nặng.

· Bệnh thường xảy ra vào đầu mùa mưa, cao điểm vào khoảng tháng 6-10 âm lịch và giảm dần vào các tháng cuối năm.

· Bệnh thường gặp ở những nơi đông dân cư, vệ sinh môi trường kém.

Triệu chứng của bệnh

· Sốt cao đột ngột, liên tục kéo dài 2-7 ngày.

· Xuất huyết dưới dạng chấm rải rác trên da hoặc bầm chổ chích, chảy máu cam, ói ra máu

· Gan to.

· Sốc với mạch nhanh, nhẹ, huyết áp giảm, kẹp, hoặc không đo được, chi lạnh, bứt rứt ..

· Kèm theo một số triệu chứng không đặc hiệu như : chán ăn, đau cơ, đau khớp, đau bụng.

 SỐT XUẤT HUYẾT

Chuẩn đoán

· Triệu chứng của bệnh.

· Xét nghiệm máu có tình trạng cô đặc máu.


Ðiều trị

· Khi đã nghĩ tới bệnh sốt xuất huyết thì cần phải đưa người bệnh đến bệnh viện để được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Hiện tại đa số được khuyên là không nên dùng thuốc hạ nhiệt nhóm Salicylates vì có thể gây xuất huyết và làm toan huyết. Thuốc được sử dụng nhiều nhất là paracétamol, lau mát để hạ sốt.Truyền dịch.

· Dưỡng khí.

· Thuốc an thần.

· Hạn chế một số thủ thuật gây chảy máu, đặc biệt là chọc hút ở các tĩnh mạch lớn.Trong trường hợp có tràn dịch màng phổi, gây khó thở, có thể chọc dò thoát dịch để giải quyết tạm thời tình trạng suy hô hấp.Sự theo dõi được tiến hành liên tục cụ thể là : Mạch, huyết áp, nhịp thở, nhiệt độ mỗi 15 – 30 phút một lần hoặc sát hơn, cho đến khi ổn định, lượng dịch truyền, lượng nước tiểu.

Phòng ngừa bệnh

· Theo dõi tất cả các trường hợp có sốt. Dựa vào các tiêu chuẩn lâm sàng và xét nghiệm để chẩn đoán sớm, đồng thời có biện pháp điều trị thích hợp.

· Diệt lăng quăng.

· Dọn dẹp các nơi bùn lầy, nước đọng nhất là các vật chứa nước cặn như chén bể, lon bia, vỏ xe, vỏ chai …

· Các biện pháp khác: Hun khói xua muỗi, diệt lăng quăng bằng cách nuôi cá bảy màu, ngủ mùng, dùng hóa chất ngăn cản muỗi đốt.Hiện vẫn chưa có thuốc chủng ngừa bệnh sốt xuất huyết.


 SỐT XUẤT HUYẾT


Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ
Công ty TNHH sức khỏe tuyệt hảo
Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh
Điện thoại: 0935 141 438 - Mr Lâm
Email : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn

Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

CHOLESTEROL CAO


Cholesterol là loại chất béo sáp cần thiết cho sự phát triển các tế bào khỏe mạnh. Tuy nhiên, quá nhiều cholesterol lại có thể gây xơ vữa động mạch, đau tim...

Mức độ từ 200mg/dL tới 239mg/dL là sát mí (borderline), và người nào có mức độ mỡ trong máu mà trên 240mg/dL thì có rất nhiều nguy cơ bị bệnh về tim mạch.

Hậu quả của cholesterol tăng cao

Cholesterol cần thiết cho sự phát triển cơ thể. Tuy nhiên, quá nhiều cholesterol lại có thể gây ra những vấn đề sức khỏe. Tăng cholesterol có thể do di truyền hoặc do ăn uống không lành mạnh và thiếu tập luyện. Việc dự phòng bao gồm hạn chế những thực phẩm chứa nhiều cholesterol, tập luyện thường xuyên và tư vấn bác sĩ về những thắc mắc và các loại thuốc. Dưới đây là những chứng bệnh gây ra do cholesterol tăng cao:

Xơ vữa động mạch

Cholesterol tăng cao không kiểm soát được có thể gây xơ vữa động mạch, xuất hiện khi các mảng bám tích tụ trong thành động mạch. Mảng bám là chất được tạo thành bởi cholesterol, chất béo và canxi. Mảng bám tích tụ trong thành động mạch sẽ khiến cho động mạch bị cứng và hẹp lại, có thể gây tắc nghẽn làm máu và oxy không thể lưu thông. Kết quả là sẽ gây đột quỵ và đau tim.


Cholesterol tăng cao không kiểm soát được có thể gây xơ vữa động mạch, do các mảng bám tích tụ trong thành động mạch, từ đó dẫn tới nhiều hệ lụy như máu không lưu thông được tới não, tim...

Các dấu hiệu và triệu chứng của xơ vữa động mạch có thể bao gồm đau ngực, khó thở, tê hoặc đau các chi. Tuy nhiên, ở một số người không có bất cứ triệu chứng nào.

Đau tim

Khi cholesterol hình thành trong thành động mạch, cản trở lưu thông oxy và máu, một người sẽ có nguy cơ bị đau tim. Trong khi đau tim, các mảng bám vỡ ra và hình thành cục máu đông, có thể ngăn không cho động mạch nhận máu, oxy và các cơ tim bắt đầu chết. Nếu lưu thông máu được phục hồi đúng lúc, qua hồi sức tim phổi, tim có thể hoạt động trở lại. Các dấu hiệu và triệu chứng của đau tim có thể gồm khó thở, đau ngực, đổ mồ hôi, ngất xỉu, buồn nôn, nôn và đau bắt đầu từ ngực, tỏa đến vai, cánh tay, lưng và thậm chí cả răng, hàm. Những người từng có những dấu hiệu và triệu chứng này nên đi khám bác sĩ ngay lập tức.

Đau thắt ngực

Đau thắt ngực, được đặc trưng bởi sự co thắt ngực và đau, là kết quả của việc hạn chế lưu thông máu các động mạch bị tắc bởi có quá nhiều cholesterol xấu. Các động mạch bị tắc và hẹp lại vì sự lắng đọng các chất béo, gây cản trở lưu thông máu tới tim. Đau thắt ngực có thể dẫn tới bệnh tim mạch.

Đột quỵ

Khi các động mạch tới não bị tắc nghẽn hoặc hẹp do hàm lượng cholesterol cao, máu và oxy không thể tới não. Nếu các tế bào não không nhận đủ oxy và máu, chúng bắt đầu chết và gây đột quỵ. Các dấu hiệu và triệu chứng của đột quỵ gồm nói khó hoặc líu lưỡi, đi lại khó khăn, liệt hoặc tê một bên mặt hoặc cơ thể, nhìn mờ, nhìn đôi hoặc có điểm đen. Một số người bị đau đầu đột ngột và dữ dội có thể gây nôn, chóng mặt hay kém nhận thức. Đột quỵ đòi hỏi phải có can thiệp y tế ngay lập tức.

Bệnh động mạch ngoại biên

Cholesterol cao có thể làm tăng khả năng mắc bệnh động mạch ngoại biên. Bệnh này là do các động mạch ở chân bị tắc nghẽn do tích tụ mảng bám. Kết quả là chân của bạn không nhận đủ oxy hoặc máu và hình thành bệnh động mạch ngoại biên, vốn là bệnh gây đau đớn của các động mạch chân. Bên cạnh những ảnh hưởng tới chân, động mạch ngoại biên có thể đe dọa đau tim và gây ra các vấn đề tim mạch khác.

Huyết áp cao

Trong khi cholesterol tốt không gây tăng huyết áp thì cholesterol xấu lại gây ra tình trạng này. Trên thực tế, cholesterol tốt có thể giúp đạt được huyết áp bình thường. Hàm lượng cao cholesterol xấu có thể dính vào thành động mạch cũng như các mạch máu khác. Nó làm tắc nghẽn lưu thông máu, khiến tim phải làm việc vất vả gấp đôi. Ngoài ra, cũng có một lực máu mạnh hơn trên thành động mạch, dẫn đến tăng huyết áp
Ăn uống thế nào khi "bị" cholesterol cao?

TTCT - Cholesterol cao là mối lo của nhiều người, nhưng không phải loại bỏ những thức ăn khiến làm tăng nguy cơ là an toàn, mà là ăn như thế nào cho đúng.


Hạ thấp đến bao nhiêu là bình thường? Không có mức bình thường tuyệt đối, mức bình thường của người khỏe mạnh dao động tùy theo cách đo đạc mà phòng xét nghiệm sử dụng. Những người có nguy cơ tim mạch cao và rất cao thường phải dùng thuốc statin để kiểm soát LDL cholesterol, sao cho giữ ở mức nhỏ hơn 100 mg/dl.

Tuổi tác không phải là yếu tố cân nhắc khi cho thuốc bởi người già thường có lợi khi hạ thấp LDL cholesterol.

Ăn đúng

Để giảm LDL cholesterol hay triglyceride đòi hỏi phải kết hợp giảm cân, vận động thể lực thường xuyên và chế độ ăn ít chất béo bão hòa và cholesterol. Những thuốc hạ mỡ máu hiện có không thể đủ để hạ cholesterol hay triglyceride như mong muốn, mà chỉ có thể giảm 30-40% trị số ban đầu. Phần còn lại đòi hỏi phải thay đổi lối sống và ăn uống.

Thay đổi lối sống (bao gồm vận động, bỏ thuốc lá) không chỉ làm hạ cholesterol, giảm triglyceride mà còn giảm đột quỵ hay cơn đau tim qua cơ chế khác không liên quan đến cholesterol.

Bên cạnh việc thay đổi lối sống như năng tập luyện cường độ trung bình, giảm cân thừa, giảm rượu, ngưng hút thuốc lá, kiểm soát đường huyết (nếu có), ăn uống đúng cách là bước đầu tiên nhưng rất hiệu quả trong nỗ lực giảm cholesterol và triglyceride lại không lo tác dụng phụ.

Ở đây nhấn mạnh không nên ăn kiêng mà là ăn hợp lý. Ăn kiêng quá mức làm cơ thể thiếu chất, nhất là thiếu vi chất, lâu ngày gây suy dinh dưỡng, giảm khả năng đề kháng với bệnh tật. Để giảm cholesterol, chọn thức ăn không có mỡ bão hòa, không có cholesterol là điều kiện tiên quyết.

Đối với người tăng triglyceride, lưu ý cắt giảm tinh bột đã qua chế biến có trong thức ăn nhanh, bánh mì, bắp rang, thay vào đó là chất bột chưa qua chế biến như bắp trái, khoai, các loại củ...

ĐỂ PHÒNG NGỪA CHOLESTEROL CAO

Hạn chế chất béo, phần năng lượng do dầu mỡ trong khẩu phần ăn hằng ngày chỉ nên dưới 30% tổng năng lượng cần dùng. Ví dụ khoảng 2.200kcal cần cho cơ thể người trưởng thành mỗi ngày thì chất béo chỉ nên cung cấp 600kcal.

- Không ăn thức ăn có cholesterol cao. Nhu cầu hằng ngày là 300mg cholesterol. Vì vậy lòng đỏ trứng, thịt đỏ nên hạn chế vì có nhiều cholesterol và acid béo bão hòa. Ví dụ một trứng mỗi tuần.

- Giảm các chất béo bão hòa (thịt mỡ, bơ, phomát, margarin...), thay thế bằng chất béo chưa bão hòa (dầu đậu nành, dầu hướng dương, dầu vừng...).

- Nên ăn cá nhiều hơn và chọn cá béo vì omega-3 có trong mỡ cá giúp giảm mỡ máu.

- Ăn nhiều rau cải, trái cây.

Nguồn cung cấp cholesterol chính đến từ thịt, gia cầm, cá, phủ tạng động vật, nhất là gan và sản phẩm từ sữa, trong khi rau cải không chứa một lượng nhỏ nào.

Và bạn cũng đừng quá căng thẳng trong chuyện ăn uống khi đã ăn kiêng đến “tận trời đất” và uống thuốc đúng chỉ định mà cholesterol vẫn không giảm. Không phải cứ ăn kiêng là có thể giảm được mỡ máu, bởi chỉ 20% cholesterol trong cơ thể đến từ thức ăn, cơ thể bạn vẫn tự sản xuất cholesterol quá mức do bất thường gen quy định.

ĐIỀU TRỊ CHOLESTEROL CAO

Điều trị bằng thuốc

Thuốc làm hạ cholesterol thường có 4 nhóm chính, nhưng thường dùng nhất là nhóm fibrat và statin.

- Nhóm fibrat: biệt dược thông dụng là lypanthyl (viên 100mg, 300mg), làm giảm loại cholesterol có hại, tăng cholesterol có lợi, lập lại cân bằng bình thường về hai loại này. Nhờ thế làm giảm hẳn lượng cholesterol trong máu (nếu dùng lâu dài) và từ đó làm giảm nguy cơ xơ mỡ động mạch.

Tuy nhiên thuốc loại này thường làm tổn thương cơ (thường xảy ra hơn đối với người bị đau cơ lan tỏa), ảnh hưởng xấu đến thận và gan (làm tăng chỉ số transaminnaza). Vì thế không được dùng cho người suy gan thận, với người bình thường khi dùng cũng phải định kỳ kiểm tra chức năng gan (đo chỉ số transaminaza).

- Nhóm statin: Biệt dược thông dụng là lescol (viên 20mg). So với nhóm trên, thì nhóm này làm giảm cholesterol có hại và tăng cholesterol có lợi với mức mạnh hơn, do đó ngăn ngừa tốt hơn nguy cơ xơ mỡ động mạch và một số bệnh tim khác.

Một ưu điểm khác là thuốc được hấp thu nhanh và hoàn toàn (khoảng 98%). Thuốc có những tác dụng độc như nhóm trên nên cũng có khuyến cáo tương tự. Ngoài ra chưa có các thông tin đầy đủ cho trẻ dưới 18 tuổi nên không nên dùng cho đối tượng này.

- Nhóm niacin: biệt dược thông dụng niacin (viên nén 5, 50, 100, 150 và 500mg, ống tiêm 1ml chứa 0,17% niacin). Thuốc làm giãn nở các động mạch nhỏ, mao mạch, giảm cholesterol máu. Thường dùng phối hợp với nhóm statin.

Cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ có thai, cho con bú, không dùng cho trẻ em, hết sức thận trọng khi dùng cho người sỏi mật, người có bệnh mạch vành. Theo dõi cẩn thận người bệnh có tiền sử vàng da, có bệnh gan hay loét tiêu hóa nếu phải dùng thuốc. Cấm dùng với người rối loạn chức năng gan, loét tiêu hóa, chảy máu động mạch.

- Nhóm resin: biệt dược thông dụng là cholestyramin hoặc cholestipal. Thuốc làm giảm loại lipoprotein phân tử lượng thấp (tức gián tiếp làm giảm cholesterol có hại) và từ đó làm giảm lượng cholesterol toàn phần xuống 25-30%, làm giảm sự tích tụ lipít ngoài thành mạch.

Tuy nhiên bản chất của thuốc là nhựa trao đổi ion, không bị hấp thu qua đường tiêu hóa, sau 3-6 tuần không dùng thuốc, lượng lipoprotein phân tử lượng thấp và cholesterol toàn phần lại tăng lên. Thuốc có thể gây táo bón và tiêu chảy, nôn, nhưng sẽ tự mất đi khi ngừng dùng.

Hiện nay, người ta còn dùng một loại thuốc mới có tên là lipotropic, thực chất là một hỗn hợp gồm các chất hướng mở, vận chuyển mỡ. Hỗn hợp này làm tăng việc sản xuất ra lecithin do đó giúp hòa tan cholesterol, giảm lượng cholesterol thành mạch, ngăn ngừa nguy cơ xơ mỡ động mạch...

Những thuốc nói trên thường đắt, khó dùng. Thầy thuốc chỉ cho khi có sự rối loạn mất cân bằng cholesterol thực sự và khi tiền sử người bệnh không có bệnh tim mạch, tiểu đường.

Với những trường hợp khó khăn này, lọc máu lấy bớt LDL cholesterol được các trung tâm chuyên điều trị rối loạn lipid thực hiện.

PHƯƠNG PHÁP HIỆN ĐẠI NHẤT

Đến với Công ty TNHH sức khỏe tuyệt hảo để được khám và tư vấn bằng phương pháp Đông Tây Y kết hợp. Với chi phí hợp lý , chữa bệnh tận nhà sẽ làm hài lòng quý khách.

Nắm trong tay phương pháp trị bệnh và phòng bệnh tiên tiến nhất, chúng tôi cam kết hoàn tiền 100% nếu bệnh nhân không hết bệnh và sức khỏe không được hồi phục.


Mọi chi tiết và giải đáp xin liên hệ

Công ty TNHH sức khỏe tuyệt hảo

Địa chỉ: Số: 48/13, Đường số 10, P. Bình Hưng Hòa B, Q. Bình Tân,Tp Hồ Chí Minh, Việt Nam
Điện thoại:0913 254 627 (gặp chị Năng) - Hotline : 0935 141 438 - Mr Lâm
Email : tribenhthongminh.vn@gmail.com
http://www.tribenhthongminh.vn